Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045

Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045 được cụ thể hoá trong Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị với những mục tiêu cụ thể, thể hiện tầm nhìn mới của Đảng và Chính phủ về phát triển năng lượng quốc gia.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách và sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ ngành năng lượng về nhiều mặt với phương châm “năng lượng phải đi trước một bước”. Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 26-KL/TW, ngày 24/10/2003 về Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện lực Việt Nam; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2007 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050.

Trước yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của giai đoạn thực hiện chiến lược 10 năm 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, đòi hỏi phải có những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách mới cho phát triển ngành năng lượng quốc gia. Vì vậy, Bộ Chính trị đã giao Ban Kinh tế Trung ương chủ trì tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 18, Ban cán sự đảng Bộ Công thương chủ trì tổng kết 15 năm thực hiện Kết luận số 26.

Tại phiên họp ngày 20/12/2019, Bộ Chính trị đã họp cho ý kiến đối với Báo cáo tổng kết của 2 Đề án, sau đó giao Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các đề án để xây dựng trình Bộ Chính trị ban hành 1 Nghị quyết chung về định hướng chiến lược phát triển năng lược quốc gia, trong đó có nội dung về phát triển ngành điện lực.

nang-luong-xanh

Năng lượng sạch, năng lượng tái tạo sẽ dần trở thành nguồn năng lượng quan trọng tại Việt Nam

Trên cơ sở dự thảo Nghị quyết do Ban Kinh tế Trung ương chuẩn bị, Bộ Chính trị đã cho ý kiến hoàn thiện. Ngày 11/2/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết 55 đã thể hiện nhiều điểm mới trong chủ trương, chính sách của Đảng ta về phát triển năng lượng quốc gia, có thể khái quát những điểm mới cơ bản.

Nghị quyết 55 nêu 5 quan điểm chỉ đạo toàn diện, sâu sắc về phát triển năng lượng quốc gia, trong đó có những nội dung mới. Cụ thể:

Thứ nhất, xác định rõ hơn và toàn diện hơn về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và vị trí, vai trò của phát triển năng lượng quốc gia. Nghị quyết 55 lần đầu đề cập rõ về vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong tình hình mới, theo đó “bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng, đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội”Tại Nghị quyết này, phát triển năng lượng quốc gia không chỉ là nhiệm vụ “trọng tâm xuyên suốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” như đã nêu tại Nghị quyết 18 mà “phải ưu tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm quốc phòng, an ninh”.

Vấn đề phát triển năng lượng phải gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội cũng lần đầu tiên nêu tại Nghị quyết; đây cũng là điểm mới, thể hiện rõ tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển năng lượng đất nước.

Thứ hai, quan điểm mạnh mẽ và toàn diện hơn về phát triển thị trường năng lượng quốc gia cũng như gắn kết giữa phát triển năng lượng với thể chế và xu thế hội nhập quốc tế. Nghị quyết 55 đã nêu quan điểm “phát triển năng lượng quốc gia phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu thế hội nhập quốc tế”.

Nếu như trước đây, tại Nghị quyết 18 mới chỉ nêu quan điểm “từng bước hình thành thị trường năng lượng” thì đến Nghị quyết 55, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh quan điểm “nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hoá hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh;áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng”Đây là những điểm có tính đột phá, khẳng định rõ nét hơn, quyết liệt hơn yêu cầu phải nhanh chóng và triệt để thực hiện cơ chế thị trường đối với ngành năng lượng qua cơ chế giá năng lượng để thu hút, phân bổ nguồn lực đầu tư trong phát triển các loại hình năng lượng.

Thứ ba, quan điểm mạnh mẽ hơn, cụ thể và toàn diện hơn về việc thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển năng lượng, đặc biệt là kinh tế tư nhân, kể cả trong lĩnh vực truyền tải điện.

Nếu như tại Nghị quyết 18 mới đề cập quan điểm “Thúc đẩy nhanh việc xoá bao cấp, xoá độc quyền, tiến đến xoá bỏ hoàn toàn việc thực hiện chính sách xã hội thông qua giá năng lượng” thì đến Nghị quyết 55, Bộ Chính trị đã nêu rõ “Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng; kiên quyết loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh không bình đẳng, thiếu minh bạch trong ngành năng lượng”. Đây là những quan điểm mới, phù hợp với tình hình thực tiễn, đánh giá đúng vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế.

Thứ tư, nêu rõ quan điểm về phát triển các nguồn năng lượng phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển năng lượng của đất nước cũng như của thế giới. Theo đó Nghị quyết xác định “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng hoá thạch trong nước, chú trọng mục tiêu bình ổn, điều tiết và yêu cầu dự trữ năng lượng quốc gia; ưu tiên phát triển điện khí, có lộ trình giảm tỉ trọng điện than một cách hợp lý; chủ động nhập khẩu nhiên liệu từ nước ngoài cho các nhà máy điện”. Đồng thời, lần đầu tiên tại Nghị quyết này, Bộ Chính trị cũng đặt ra yêu cầu phải tính toán để phân bổ tối ưu hệ thống năng lượng quốc gia trong tất cả các lĩnh vực trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương.

Thứ năm, gắn phát triển năng lượng quốc gia với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nâng tầm vai trò của chính sách sử dụng tiết kiệm năng lượng trong phát triển năng lượng quốc gia. Ngành năng lượng được đánh giá là ngành chịu tác động rất lớn của cuộc CMCN lần thứ tư, do đó, tại Nghị quyết này, Bộ Chính trị nêu rõ quan điểm phải “chú trọng nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển tất cả các phân ngành, lĩnh vực năng lượng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, tiến tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng lượng”.

Tại Nghị quyết 18, vấn đề sử dụng tiết kiệm năng lượng đã được đề cập nhưng mới dừng lại ở yêu cầu có chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả nhưng đến Nghị quyết 55, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường đã được nâng tầm, trở thành “quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội”.

Mục tiêu và tầm nhìn phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Đối với mục tiêu tổng quát, Nghị quyết 55 nhấn mạnh ngoài việc cung cấp năng lượng với chất lượng cao, cần phải cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, với giá cả hợp lý. Đây là điểm sâu sắc hơn Nghị quyết 18, gắn với nội hàm cấu thành việc đảm bảo an ninh năng lượng. Ngoài ra, Nghị quyết 55 chú trọng hơn đến mục tiêu phát triển hạ tầng đồng bộ và thông minh, nêu rõ mục tiêu phải đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN. Đặc biệt, đưa mục tiêu rõ ràng hơn trong việc chủ động sản xuất được một số thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng; nâng cấp, xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại.

Đối với một số mục tiêu cụ thể, ngoài mục tiêu cụ thể đề về tổng cung năng lượng sơ cấp, Nghị quyết 55 có tính toán và bổ sung thêm các chỉ tiêu quan trọng khác cho định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia như: chỉ tiêu về tổng công suất và sản lượng điện năng, tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng gắn với yêu cầu giảm cường độ năng lượng và tăngtỉ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng trong từng giai đoạn đến năm 2030 và năm 2045; mục tiêu cụ thể đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện năng thuộc tốp 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 nước dẫn đầu ASEAN. Trong bối cảnh nước ta cần phải nhập khẩn năng lượng ngày càng lớn, Nghị quyết 55 đề xuất mục tiêu nhập khẩu khí LNG (là nguồn năng lượng sạch) đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hoá lỏng (LNG) khoảng 8 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 15 tỉ m3 vào năm 2045. Đặc biệt đối với vấn đề môi trường, Nghị quyết 55 đưa mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045.

LNG projects

Các dự án LNG Tại Việt Nam 

Về tầm nhìn, Nghị quyết 18 không đưa tầm nhìn cụ thể mặc dù xác định thời gian đến năm 2050. Nghị quyết 55 xác định tầm nhìn cụ thể đến năm 2045, ngoài một số nội dung mang tính tổng quát được nêu trong tầm nhìn, Nghị quyết 55 nhấn mạnh đến khả năng kết nối khu vực và quốc tế được nâng cao; chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học – công nghệ và năng lực quản trị ngành năng lượng đạt trình độ tiên tiến của một nước công nghiệp phát triển hiện đại.

Nghị quyết 55 xác định 10 nhiệm vụ và giải pháp có tính toàn diện và cụ thể. Các giải pháp phát triển các nguồn cung năng lượng được nêu rõ ràng và cụ thể cho từng phân ngành năng lượng, từng loại hình phát điện; từ đó, tạo thuận lợi cho việc thể chế hoá các nội dung này trong những chiến lược, chính sách liên quan.

Một số giải pháp mới như: ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ khí tự nhiên hoá lỏng (LNG); xây dựng mới chiến lược phát triển ngành than gắn với nhiệm vụ đầu tư hiệu quả ra nước ngoài và nhập khẩu than dài hạn. Thực hiện dự trữ than phù hợp, đáp ứng yêu cầu cho các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất điện; xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá thạch, ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện; hình thành và phát triển một số trung tâm năng lượng tái tạo tại các vùng và các địa phương có lợi thế; xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam. Đối với ngành điện, Nghị quyết 55 nêu rõ yêu cầu xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển ngành điện lực Việt Nam cho giai đoạn mới với hệ thống các giải pháp rất cụ thể được nêu trong Nghị quyết.

Về phát triển hạ tầng năng lượng, nếu như nội dung này chưa được đề cập cụ thể trong Nghị quyết 18 thì đến Nghị quyết 55, Bộ Chính trị xác định yêu cầu phát triển hạ tầng năng lượng bền vững, kết nối khu vực. Theo đó, cần xác định danh mục hạ tầng năng lượng có thể dùng chung và xây dựng cơ chế dùng chung phù hợp với cơ chế thị trường; xoá bỏ mọi độc quyền, rào cản bất hợp lý trong sử dụng cơ sở vật chất và dịch vụ hạ tầng năng lượng; có cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng hệ thống truyền tải điện, tách bạch với độc quyền nhà nước về truyền tải điện. Bên cạnh đó, Nghị quyết 55 cũng nêu rõ cần thúc đẩy nhanh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về phát triển hạ tầng năng lượng thông minh.

Điểm mới trong Nghị quyết 55 là đưa các giải pháp cụ thể về nâng cao nội lực ngành công nghiệp chế tạo, dịch vụ phục vụ ngành năng lượng, theo đó là cần hoàn thiện chính sách đặt hàng sản xuất của Nhà nước để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện những công trình, dự án phức tạp, kỹ thuật cao trong ngành năng lượng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế; đây là giải pháp mang tính đột phá để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước.

Liên quan đến nhiệm vụ về cơ cấu lại để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp năng lượng nhà nước, Nghị quyết 55 cho phép “nghiên cứu, triển khai thí điểm cơ chế bán có thời hạn hoặc cho thuê dài hạn đối với các nhà máy điện, kho nhiên liệu, nhà máy lọc dầu… thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhà nước”; điều này tạo sự linh hoạt cho các doanh nghiệp nhà nước trong khai thác và sử dụng tài sản đồng thời mở ra cơ hội cho nguồn thu ngân sách dựa trên hiệu quả sử dụng vốn nhà nước.

Đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước, Nghị quyết 55 cũng nêu nhiệm vụ “xoá bỏ mọi rào cản để thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, phát triển các dự án năng lượng trong và ngoài nước, chú trọng những dự án phát điện và các hoạt động bán buôn, bán lẻ điện theo cơ chế thị trường. Tiếp tục khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài có quy mô, chất lượng và hiệu quả cho ngành năng lượng”,  “có cơ chế khuyến khích thu hút vốn ngoài nhà nước đầu tư xây dựng vào hệ thống truyền tải điện quốc gia”.

Đối với chính sách tài chính, tín dụng, Nghị quyết 55 yêu cầu thực hiện những giải pháp để “đổi mới chính sách tài chính theo hướng khuyến khích, thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước; khuyến khích các dự án đầu tư năng lượng theo hình thức đối tác công tư (PPP). Thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp năng lượng tiếp cận các nguồn vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp có dự án năng lượng xanh”.

Về khung pháp lý, xây dựng và hoàn thiện thể chế thúc đầy phát triển năng lượng, Nghị quyết 55 yêu cầu “sửa đổi, hoàn thiện các luật chuyên ngành về dầu khí, điện lực, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và các luật khác liên quan đến ngành năng lượng đểlàm cơ sở thực hiện hiệu quả hơn cơ chế thị trường. Nghiên cứu, thực hiện luật hoá việc điều hành giá điện và một số ưu đãi cho dự án được khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực năng lượng. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kiểm soát và điều phối điện lực. Nghiên cứu, xây dựng và ban hành luật về năng lượng tái tạo”.

Để khắc phục tồi tại yếu kém trong công tác quy hoạch, Nghị quyết 55 đề ra giải pháp để “nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch phát triển năng lượng, đặc biệt trong phân ngành điện, bảo đảm tính ổn định, đồng bộ và linh hoạt, gắn kết với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và một số ngành khác. Rà soát, điều chỉnh và sớm ban hành các quy hoạch liên quan đến phát triển năng lượng theo Luật Quy hoạch”.

Đây là những giải pháp rất cụ thể, tạo cơ sở để các cấp, các ngành triển khai thực hiện ngay theo yêu cầu của Bộ Chính trị; đó cũng chính là sự khác biệt rõ nét của Nghị quyết 55 so với Nghị quyết 18. Một điểm đáng chú ý nữa là phù hợp với tình hình thực tế về cung – cầu năng lượng hiện nay và trong thời gian tới, Nghị quyết 55 yêu cầu “đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tích cực, chủ động xây dựng các đối tác chiến lược để thực hiện mục tiêu nhập khẩu năng lượng trong dài hạn và đầu tư tài nguyên năng lượng ở nước ngoài”.

Đây là nhiệm vụ có tính chiến lược, kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện có thể sẽ gặp một số khó khăn và phụ thuộc vào yếu tố quốc tế; do đó cần sự quan tâm, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm chính thuộc về ngành năng lượng với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân. Một điểm mới nữa là Nghị quyết 55 gắn chính sách bảo vệ môi trường ngành năng lượng với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Nghị quyết 55 đề ra nhiệm vụ cần xây dựng quy chế tài chính về môi trường, bảo đảm tính đủ các chi phí về môi trường, xã hội trong đầu tư và giá thành sản phẩm.

Để đưa Nghị quyết vào cuộc sống nhanh chóng, Nghị quyết 55 nêu các giải pháp cụ thể để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội trong phát triển ngành năng lượng. Theo đó, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ phải rà soát, hoàn thiện mô hình quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng. Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, cơ chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong phát triển năng lượng; xây dựng cơ chế và khung pháp lý bảo đảm cho việc tuân thủ quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia. Xử lý nghiêm đối với các dự án đầu tư chậm triển khai, làm ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia…

Về tổ chức thực hiện Nghị quyết 55, Bộ Chính trị đã nêu rõ nhiệm vụ đối với Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, các tỉnh ủy, thành ủy và các ban đảng Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Theo đó, trong thời gian tới trên cơ sở tinh thần của Nghị quyết, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và các chiến lược phát triển các phân ngành năng lượng, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia; ưu tiên bố trí đủ nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ đã nêu trong Nghị quyết; khẩn trương triển khai các cam kết quốc tế trong việc nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hoà bình; sớm tổng kết rà soát Luật Điện lực và các luật có liên quan để trình Quốc hội sửa đổi những nội dung còn bất cập, nhất là vấn đề quy hoạch, truyền tải điện.

Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị thể hiện những quan điểm chỉ đạo, định hướng chiến lược và chính sách đúng đắn của Đảng ta về chiến lược phát triển năng lượng quốc gia. Nghị quyết được kỳ vọng sẽ tạo ra những đột phá mới cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong Chiến lược 10 năm 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Nguồn : Nhadautu.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *